Lồng cọc khoan nhồi là loại cọc được thi công bằng cách khoan lỗ trong đất rồi đặt lồng cốt thép và sau đó đổ bê tông.
lồng cọc khoan nhồi
Các giai đoạn thi công:
1. Giai đoạn khoan lỗ lồng cọc khoan nhồi:
Lỗ lồng cọc khoan nhồi được khoan bằng nhiều phương pháp, một trong những phương pháp đó là khoan bằng gầu tròn, kết hợp với dung dịch khoan để giữ thành đất không bị bục ra trong quá trình khoan (dung dịch khoan có thể là bentonite, gọi tắt là ben, hoặc là polime). Người ta sẽ dùng một cần trục để đứng dọc theo phương của cọc định khoan, sau đó ấn khuôn tròn xuống và múc từng khối đất lên, đào tới đâu cho dung dịch khoan đến đó để giữ thành đất vững. Một cách khác không dùng dung dịch khoan là đào tới đâu chống ống vách đến đó.
các giai đoạn thi công lồng cọc khoan nhồi
2. Đặt lồng cốt thép:
Cốt thép được gia công theo bản vẽ thiết kế thi công và TCXD 205-1998. Nhà thầu phải bố trí mặt bằng gia công, nắn cốt thép, đánh gỉ, uốn đai, cắt và buộc lồng thép theo đúng quy định.
Cốt thép được chế tạo sẵn trong xưởng hoặc tại công trường, chế tạo thành từng lồng, chiều dài lớn nhất của mỗi lồng phụ thuộc khả năng cẩu lắp và chiều dài xuất xưởng của thép chủ. Lồng thép phải có thép gia cường ngoài cốt chủ và cốt đai theo tính toán để đảm bảo lồng thép không bị xoắn, méo. Lồng thép phải có móc treo bằng cốt thép chuyên dùng làm móc cẩu, số lượng móc treo phải tính toán đủ để treo cả lồng vào thành ống chống tạm mà không bị tuột xuống đáy hố khoan, hoặc cấu tạo guốc cho đoạn lồng dưới cùng tránh lồng thép bị lún nghiêng cũng như để đảm bảo chiều dày lớp bê tông bảo hộ dưới đáy cọc.
Cốt gia cường thường dùng cùng đường kính với cốt chủ, uốn thành vòng đặt phía trong cốt chủ khoảng cách từ 2.5 -> 3m, liên kết với cốt chủ bằng hàn đính và dây buộc theo yêu cầu của thiết kế. Khi chuyên chở, cẩu lắp có thể dùng cách chống tạm bên trong lồng thép để tránh hiện tượng biến hình.
Định tâm lồng thép bằng các con kê (tai định vị) bằng thép trơn hàn vào cốt chủ đối xứng qua tâm, hoặc bằng các con kê tròn bằng xi măng, theo nguyên lý bánh xe trượt, cố định vào giữa 2 thanh cốt chủ bằng thanh thép trục. Chiều rộng hoặc bán kính con kê phụ thuộc vào chiều dày lớp bảo hộ, thông thường là 5cm.
Nối các đoạn lồng thép chủ yếu bằng dây buộc, chiều dài nối theo quy định của thiết kế. Khi cọc có chiều dài lớn, Nhà thầu cần có biện pháp nối bằng cóc, dập ép ống đảm bảo đoạn lồng thép không bị tụt khi lắp hạ.
thả lồng cốt thép
3. Đổ bê tông:
Bê tông được đổ không được gián đoạn trong thời gian dung dịch khoan có thể giữ thành hố khoan (thông thường là 4 giờ). Các xe bê tông đều được kiểm tra độ sụt đúng quy định để tránh tắc ống đổ do vữa bê tông quá khô. Dừng đổ bê tông khi cao độ bê tông cọc cao hơn cao độ cắt cọc khoảng 1m ( để loại trừ phần bê tông lẫn dung dịch khoan khi thi công đài cọc).
Bê tông được bơm từ đáy cọc lên, bê tông ở dưới dâng lên, đẩy dung dịch khoan ra ngoài.
4. Những sai sót có thể xảy ra:
- Lệch lồng thép.
- Đầu cọc có bê tông bị dung dịch khoan lẫn vào, phải đục bỏ đổ bê tông đến đúng cao độ lại.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét